Sunday, April 17, 2011

Những vụn vặt trong thành phố (part 4)

Mượn tạm từ note của một người bạn. 
What hurts the most is missing someone whom you see everyday.
No, it's being forgotten by someone you would never forget.
I know, right?


I just came to say I love you and see if you would be needing anything
To say thank you and how greatful I am for everything you taught me
It's those long talks I won't forget
Just to see you smile, it brings me right to them
So I'll sit here now and hold your hand
It's these few long hours that make me what I am

We laugh about the times, we laughed so hard until we fell asleep this evening
And then I watch you there alone, in fear, wishing I could speed your breathing
And all the wind blows through the trees
I swear there are angels talking back to me
And I scream please don't leave me here tonight
I need you now, I need you in my life

But you're gone and you're never coming back again
But you're gone and you're never coming back again
But you're gone and you're never coming back again
But you're gone and you're never coming, you're never coming back
But you're gone and you're never coming back again

Wednesday, April 6, 2011

Những vụn vặt trong thành phố (part 2 - in the light of the sun)

Tối hôm ấy, mùa đông không lạnh khiến tôi cứ ngỡ dáng dấp mùa thu vẫn còn luẩn quẩn quanh đây. Nhưng vị đông thì vẫn đang đậm dần trên những con phố vắng lặng… hay chỉ tại một sự cô đơn vô hình nào đó vẫn đang ám ảnh tôi?

Vậy là tuyết vẫn chưa rơi; thế càng tốt! Thiếu lạnh, cái thèm khát một cảm-giác-ấm, tự nó sẽ trở nên vô hiệu rồi dư thừa. Hoài niệm cũng theo đó mà tan vỡ… bởi ranh giới giữa 2 trạng thái ấy mờ nhạt lắm. Nhưng vẫn còn gió. Gió không đủ mạnh, nhưng những cảm xúc trong trí óc tôi có lẽ đủ nhẹ bẫng và mong manh để bị thổi tung lẫn lộn.

Tối hôm ấy, tôi bảo chị Trang, "Em muốn khám phá một Boston không bằng cái bụng và cái ví tiền." Thế là tôi lang thang giữa Boston. Thật kỳ lạ, Downtown Crossings cũng rộn rịp, nhưng rảo bước một mình trong dòng người ở nơi đây không khiến tôi nhận thức nỗi cô đơn đến mức sợ hãi nó như ở New York City.

Hay bởi Boston cứ gợi nhớ tôi mãi về Hà Nội?
Và bởi tôi thì cứ nhớ mãi về Hà Nội?
Nên tôi nhớ cả Boston?

Tôi đến một đoạn đường vẫn còn xây dựng vất vưởng. Nó như một nét ký họa còn nguệch ngoạc trên một bức tranh. Tôi lần mò theo chiếc cầu vượt và được đưa đẩy đến ven sông. Đó là lúc, tôi tự hỏi tại sao mình lại cứ phải giữ cho mình một nỗi đau đã kéo dài gần 3 năm trời, và tại sao tôi cứ sống dựa mãi vào một câu chuyện mình cố vẽ nên bằng thứ niềm tin mù quáng...??? 18 tuổi, sao vẫn còn trẻ con và ngây ngô thế!

Đó là con phố nào? Đó là cây cầu nào? 
Hay tôi cũng chỉ cần biết đó là một con phố, một cây cầu ở Boston.

Đó là lúc, tôi thấy mình đang nhớ Hà Nội đến cồn cào. Như thể tôi đang đứng trên cầu Long Biên bên sông Hồng vậy. Vẫn là một “thành phố mắt đêm đèn vàng”, tôi vẫn nghe thấy tiếng còi của những chuyến tàu đêm… gần, tôi vẫn thấy những con người chạy bộ; xa, tôi vẫn nhìn thấy những tòa nhà cao tầng. Bỗng, một chút hối hả của nhịp sống “bên kia sông…” như bị ngưng đọng bởi màn đêm. Cái trạng thái ở một tầm cao và xa, có nước bên cạnh… có thể khiến tôi thấy mình bé nhỏ, nhưng lại đưa tôi hòa vào thiên nhiên, đất trời, khiến tôi thấy mình mạnh mẽ, vĩnh cửu.
...
(Jan 2007)


Sau này tôi mới biết đó là Charles River. Từ ấy đến giờ, tôi còn qua lại con sông ấy nhiều lần nữa. Nhiều khi là ở rất gần bên cạnh, đến mức có thể ngửi thấy vị mằn mặn của nước. Hoặc dõi theo nó thay đổi từng mùa qua khung cửa sổ của dorm MIT.

Những chuyến đi của tôi đến Boston, thường thì tẻ nhạt đến chán ngắt, nhưng cũng khoan khoái dễ chịu vô cùng. Giống như người ta, sau một chuyến du lịch dài ngày lại trở về với quỹ đạo thường nhật. Uể oải một lúc, rồi lại cafe buổi sáng và food truck buổi trưa; rồi đến cuối tuần, hoặc nhẩn nha ở Au Bon Pain, hoặc qua Haymarket mua seafood giá rẻ, hoặc hẹn hò ở bờ cảng khu Little Italy... thế là đủ tìm về với mạch sống vẫn âm ỷ trôi chảy. Những niềm vui lớn nhất, nhiều khi lại thường từ những công việc routinal mà ra.

Có lần nọ, khi xe bus Greyhound rời hầm South Station để về New London, tôi nghĩ linh tinh rằng, những chuyến đi của tôi đến Boston đều như "a form of punishment tinged with pleasure, or the expectation of it." Bởi dù muốn dù không, ký ức của tôi vẫn sẽ ít nhiều nấn ná ở cái khoảng thời gian mà, cứ nghĩ và nhớ một chút là chực khóc nhè. Lúc ấy, dù thực tại có hạnh phúc đến mấy, chắc cũng khó mà tránh khỏi chút giật mình và lạnh người (haiz).

Nhưng mà cứ thử ngẫm xem. Trong đau đớn và tổn thương, người ta mới có tâm trí để chiêm nghiệm lại về cuộc sống và bản thân mình. Bằng không, người ta vẫn chỉ biết mải mê với niềm vui mà quên đi những lỗ hổng nhỏ khác trong đời.

Thế nên, để nói về Boston, tôi có 2 cách nói.
"là chốn lưu giữ một vài câu chuyện buồn xưa cũ,"
"là nơi để học về tình yêu, khi người ta đang lớn và sống."

Boston greeted me the first time. And it farewelled me the last time. Both with bliss.