Saturday, February 26, 2011

thức lúc nửa đêm (part 14)

Nhiều người nói với tôi rằng đọc blog của tôi, họ như thấy một phần cảm xúc của mình trong ấy.
 
Từ bé, tôi đã biết rằng tài sản lớn nhất trong cuộc đời tôi là một tâm hồn đẹp. Tôi có thể lang thang cả một buổi chiều trên phố Ngô Quyền để ngắm phố phường. Có thể đứng chênh vênh trên lan can gác thượng để đón những ngọn gió tươi mát. Có thể giúp đỡ những con người kém may mắn hơn mình mà không chút ngại ngần. Có thể say mê một thứ âm nhạc vẫn còn xa lạ với với lứa tuổi của tôi. Có thể thức đến 2h sáng bên cây đàn để đánh những bản nhạc tôi yêu thích. Có thể tận hưởng, viết và hát nên những cảm xúc của riêng tôi mà không có một chút kìm hãm nào.

Ngày xưa, tôi viết rất nhiều thơ (và nhạc). Nhưng không bao giờ có một bài thơ tình. Một phần là vì tôi chưa trải nghiệm nhiều những chuyện yêu đương hò hẹn, kể cả với V. hay T. - nhưng phần lớn, là bởi những cảm xúc ấy là của riêng tôi, và tôi không muốn gắn kết hay attribute chúng với một cá nhân đơn lẻ. Để cho dù có bất kỳ ai bước ra khỏi cuộc đời mình, tôi cũng không bị hẫng hụt và lạc lõng, và vẫn nắm bắt được chính mình.

Tôi chỉ viết về tình yêu và những existentialism của nó… về những trải nghiệm cá nhân của mình về tình yêu, chứ không phải là một câu chuyện có đầu có cuối… có lẽ vì thế mà chẳng ai đoán ra được tôi viết về ai. Và nữa, bản thân những romance của tôi cũng đâu có đầu có cuối đâu. Cũng chỉ mong manh như vốn có.

Và có lẽ vì thế mà từ sau khi bắt đầu mối quan hệ nghiêm túc, lâu dài hiện tại, tôi cũng dần từ bỏ những thói quen viết lách như vậy. Vì tôi biết rằng mình không nên san sẻ những thứ cảm xúc vu vơ này nữa. Nếu có, tôi sẽ viết vào journal, lâu lâu mở ra đọc lại, không public, không hitech.

Ngày xưa, tôi tựa mình vào một gốc cây ở Cummings để ngủ một giấc trưa thu. Tôi chạy nhảy khắp sân trường tung tăng áo váy. Nhưng những lãng mạn ấy hình như quá xa xỉ và xa lạ với cuộc sống bộn bề ở đây. Chỉ đến khi tôi sắp tốt nghiệp, tôi mới lại trèo cây với Sibel, lại được bộc lộ cái natural instincts của mình. Lại được ở rất cao và xa khỏi mặt đất để mà ngửi hương mưa và đón gió trời.

Đó là lúc tôi thấy mình thuộc về nơi này nhất.

Friday, February 25, 2011

the un-revelation (part 2)

Phố xa vương chút ngày tàn
Thu qua, đông lại, không gian ru sầu

Ta ngồi bên nhau, những bức tường kính của quán café phản chiếu hai bóng hình, mà tưởng như sắc thái hai tâm hồn. Thời gian cứ mải miết trôi, biến quá khứ thành một dạng vật chất vô thường. Vào khoảnh khắc ấy, vật cản hữu hình nhất giữa ta và ta chỉ còn là làn khói đung đưa và vẩn vương từ cốc café và ly trà nóng. Tựa vai, tay kề... nhưng những va chạm thể xác có còn ý nghĩa gì? Cứ cách nhau một khoảng, để hồn ta cùng tràn vào những đợt gió lạnh đang xô đẩy nhau đập vào bờ không gian. Có một chút điêu tàn, nhưng chẳng phải mơn man lắm ư? 

Rồi ta đi qua nhau; hai bàn tay không còn thành đôi, giờ thả lỏng; cứ thế để cả thiên khí và tình khí xưa lần mò qua từng kẽ ngón. Hội ngộ hay không là vận mệnh - nhưng vận mệnh có cho ta hội ngộ hay không? Hay cũng chỉ như "sương khói mờ nhân ảnh", tưởng là người mà lại thành mộng mị, tưởng là tình mà chỉ còn xót lại đê mê. Nếu thời gian là cát bụi, có lẽ con đường ta vừa bước qua và bỏ lại đang mù mịt lắm, rồi cũng bám rong rêu lại trên đường chân trời thôi. 

Có một ngày, ta sẽ nhìn ra nhau. Ánh mắt sẽ gửi cho nhau những gì? Không trung sẽ đưa chuyển những gì? Và còn điều gì không nói lên được trong những câu chuyện bạn bè? Hay là cứ nên khẽ khàng mỉm cười, dùng kỷ niệm để tạo dựng một ngày mai mới mẻ và tươi đẹp hơn cho cả hai?

"Memories are what warm you up from the inside. But they're also what tear you apart." (Haruki Murakami)

Chắc là như vậy. Tức là dù hồn ta có tan trong gió, hóa thành tro thì vẫn hiện thân được trong sỏi đá. Tức là vẫn còn vận mệnh, vẫn còn có nhau, vẫn cần có nhau.

(based on a once-true story. nhân một buổi chiều cuối ngõ.)